1919  19

Vi lượng đồng căn và đông y

“Lý tưởng cao đẹp nhất của Chữa Trị là sự Lành Bệnh nhanh chóng, nhẹ nhàng và tái tạo sức khỏe cho bền bỉ một cách đáng tin cậy với sự nguy hại tối thiểu”.Dr. Samuel Hahnemann (1755-1844).

A.- Y-lý Vi Lượng Đồng Căn (VLĐC ) – Homeopathic Medicines

HOMEOPATHY gốc chữ HyLạp, Homoios nghĩa là “Đồng, tương tự, giống nhau”, và Pathos là “Cảm nhận của nguyên căn”.
Vi Lượng cũng có thể gọi hoặc hiểu là Chất (substance, elements). Vi là Nhỏ, Lượng là phân lượng. Việc bào chế phải được pha loãng (dilute) phù hợp, thường là rất “nhỏ, Vi”, phân lượng hay mức độ cũng phải đúng theo tiêu chuẩn phù hợp với bệnh trạng.
Do các định nghĩa trên mà nay chúng ta bắt đầu gọi Vi Lượng Đồng Căn “VLĐC”.

VLĐC là một Dược Khoa Thiên Nhiên (Natural Pharmaceutical Science) được sáng lập bởi ông Samuel Hahnemann (gốc Đức quốc), một y sĩ và chuyên gia sinh ngữ. Ông nghiên cứu sưu tầm và tự thí nghiệm cho chính bản thân mình rồi tự chữa trị bệnh của mình bằng dược thảo. Năm 1779 tốt nghiệp y khoa ưu hạng với luận án “ Nguồn gốc và phép trị cơ bắp co rút”. 1781 ông hành nghề y-sĩ, 3 năm sau bỏ nghề chữa trị trong làng ông để đi tìm tòi nghiên cứu thêm. Ông phát hiện và biện chứng rằng: “Những gì gây ra triệu chứng nơi người khoẻ mạnh, cái đó sẽ chữa trị được người cùng mang bệnh tương tự”( đồng căn).
Thí dụ như uống thuốc Ký-ninh (Quinine) chữa Sốt Rét (Malaria), dùng lượng thấp nhỏ phù hợp thì trị được bệnh này, nhưng uống quá độ thì phát ra triệu chứng bệnh malaria. Hiểu VLĐC cách đơn giản như “lấy độc trị độc”, nhưng uống độc dược quá độ thì từ “bị thương đến chết”.
Ông Samuel Hahnemann pha chế các loại vỏ cây, lá, hoa, củ, rễ, cỏ, tinh dầu (essential oil) của hương mộc thảo vật (aromatic plants), v.v…(thông dụng gọi là DƯỢC THẢO) làm thành những kích thích tố hoặc dược tố thiên nhiên mà ông tin rằng “Bản thân có khả năng tự chữa trị”. Thời đó, ông đã đoán chắc rằng “ Bệnh là nguyên nhân do mức độ sức khỏe của chính cơ thể mình”. Ông lý luận rằng vì vậy “phải để cho chính bản thân cơ thể tự Điều Chỉnh Quân Bình”, và với tầm nhìn xa sâu sắc, “bệnh phải có căn nguyên cội rễ, nếu không chữa cội rễ, bệnh sẽ không bao giờ hết dứt, không tái tạo sức khoẻ được”.
Cơ thể mất Quân Bình là cơ thể yếu bệnh. VLĐC nhắm vào đây mà điều chỉnh tình trạng, chỉnh đốn thế quân bình nhưng phải do chính bản thân cơ thể tự thực hiện nó. Triệu chứng là dấu hiệu cho thấy sự mất quân bình (imbalance), bệnh; tái lập quân bình tức là chữa bệnh.

Sau hai thế kỷ, nay giới VLĐC đã tối-tân-hóa ngành bào chế y-dược VLĐC ngày càng tinh vi và thích hợp cho mọi lứa tuổi và nam nữ, đặc biệt nhất là có thể chữa trị rất nhiều bịnh dựa trên hai nguyên tắc chính: (1) Trị Gốc và (2) Chữa Toàn Diện (Holistic).
Trị Gốc và Toàn Diện thay vì trị Ngọn.
Trị bệnh từ khi chưa mắc bệnh, đừng chờ có bệnh mới chữa là không khác gì khát nước mới đào giếng, hoặc giặc đã đánh vào mới lo đúc binh khí.

VLĐC dùng các dược chất thiên nhiên dành riêng cho việc kích thích sự phản ứng của thần kinh hệ, dựa vào đó mà cơ thể tự trưng dụng khả năng tự nhiên để chống trả và trị bệnh. VLĐC cũng dựa vào KHÍ (Energy), tức là NỘI LỰC (vital force, hoặc inner strength) để chuyển đạt các dược tố một cách gián tiếp hoặc trực tiếp để chống hoặc trị bệnh. Thoa, Hít vào các vị hương dược thảo, hoặc cảm nhận tín hiệu phát ra từ dược tố thiên nhiên, hai việc này cũng khơi động được những phản ứng của thần kinh hệ.

Từ ngữ VLĐC cũng khá mới mẻ với VN, tuy nhiên quảng bá rộng rãi dần rồi cũng sẽ quen thôi. Đối với Âu châu và Canada, ¾ dân biết Homeopathy là gì, hơn 60% dân số đang dùng nó. Tại Hoa Kỳ, 55% nghe biết nó, nhưng chỉ có độ 35% dân tiêu thụ. Đa số vẫn còn bị đè nặng bởi Dược Hóa Học, Kỹ nghệ Pharmacy quá giàu mạnh cả tài chánh và chính trị cho nên mức dùng VLĐC còn khá khiêm nhường. Tuy nhiên, dân chúng cũng đã và đang dần dần xoay hướng tìm đến các phương cách “bổ sung”, Alternative Medicines. Nỗ lực tìm đến thiên nhiên ngày càng khá cao hơn. Các công ty sản xuất cũng đã góp nỗ lực quảng bá các thực phẩm và nước uống Organic (trồng ương bón, pha chế không chất hóa học), mỹ phẩm và xà-phòng tắm rửa cũng vậy.
Dân ta có lẽ hơn 90% dùng VLĐC mà không biết là VLĐC. Mua thuốc Bắc, thuốc Nam về sắt nấu uống, thoa dầu gió, dầu nóng, bó thuốc võ v.v…thực sự cũng là VLĐC hay thường gọi là Dược Thảo Đông Y.

Chính phủ Liên Bang, US-FDA cũng đã nhượng bộ từ năm 1938, cho phép VLĐC là một y cụ, thừa nhận VLĐC trong Đạo Luật số US Federal Food, Drug & Cosmetic Act Section 201(g)(1), công nhận VLĐC thuộc Homeopathic Pharmcopeia of the United States (HPUS)…viết rằng y dược VLĐC (Homeopathic Medicines) dùng để chẩn đoán, trị, làm giảm (đau), chữa và phòng ngừa bệnh cho con người và súc vật. Luật này mở đưòng cho nhiều ngành nghề trong lãnh vực dược thảo và Đông Y nói chung.
Kế tiếp là nhiều Tiểu Bang của USA cũng có luật hành nghề và Đại Học cho Khoa Châm Cứu, Dược Thảo. Giới Sinh-Vật-Lý học cũng đóng góp nhiều hơn, họ chứng minh được rằng TẾ BÀO trong cơ thể đáp ứng và phản ứng khi có sự kích thích của các dược tố thiên nhiên hoặc những luồng điện nhẹ từ ngoài da. Những năm gần đây bắt đầu xuất hiện các công ty công nghệ cao (high technology) sáng chế những dụng cụ và vật liệu liên quan đến Châm Cứu, Dược Thảo. Vài công ty đã phát minh các dụng cụ công nghệ cao đẳng, như kỹ thuật “Siêu Nhỏ” (Nano), Điện Toán Châm Cứu của Miridia Technology, Mảnh Đắp VLĐC của Lifewave company, sáng chế y cụ hoặc vật liệu theo VLĐC. Ưu điểm của y dược VLĐC hay đa số dược thảo là không hoặc rất ít khi bị Phản Ứng Phụ (side effects), độ an toàn rất cao. Riêng Âu châu thì từ lâu kỹ công nghệ vừa nói đã và tiếp tục đóng vai trò khá quan trọng trong lãnh vực y-tế của họ.

B.- Các Công Nghệ Cao đáng chú ý:[B]

1.- Chẩn đoán nhờ Điện Toán

Việc chẩn đoán nhờ Điện Toán (Computerized Diagnostic Process), và Điện Toán Ảnh (Digital Imaging) ngày càng tinh vi, nhu liệu (software) của Điện Toán Ảnh “ĐTA” sẽ làm giới Đông Y rúng động. Bốn Phép “Vọng, Văn, Vấn, Thiết”, “Nhìn, Nghe, Hỏi và Bắt mạch bệnh nhân”, có thể sẽ mất đi việc “Thiết”, Bắt Mạch/chẩn mạch định bệnh (pulse diagnosis). Có lẽ giới chuyên gia châm cứu, các thày thuốc, sẽ phải cập nhật trình độ điện toán để có thể sử dụng Điện Toán Ảnh “ĐTA”. Nhu liệu “NL-ĐTA” có khả năng dựa theo huyệt đạo mà phân tích “khí” âm, dương, suy, thịnh của kinh mạch liên quan đến triệu chứng. Dò và chấm định vị trí huyệt hoàn toàn chính xác, ghi nhận cũng cho thấy hình ảnh được sự thịnh hay suy của huyệt đạo nào, kinh nào, bên trái hay phải không quân bình hay suy nhược. NL-ĐTA cũng cho biết luôn của việc nên Bổ hay Tả huyệt nào, cụm huyệt nào chính hay phụ trong việc chữa bằng châm cứu cơ thể hay dùng Nhĩ châm (Lỗ Tai), hoặc phương cách khác. NL có luôn cả Thư Viện Châm Cứu gồm cả huyệt đồ và ảnh (acupuncture chart & photo), năng hiệu, chủ trị và vị trí từng huyệt, liệt kê loại bệnh theo Ngũ Hành v.v… Tất cả đều có hình ảnh và ảnh của Biểu Đồ (graphic chart) với bản báo cáo màu chi tiết của bệnh nhân. NL-ĐTA này thường dành riêng cho Acupuncturists, MDs, Doctors of Chiropractic, có kèm thêm bằng Châm Cứu, giúp họ không cần đọc lại sách hoặc phải nhớ phương trình nào từng học qua. Hồ sơ bệnh nhân, ngày khám, ngày giờ chẩn đoán, các phần ghi chú, lời khai bệnh, chỉ cần nhấn vài nút là có báo cáo, in ra và còn điện thư (email) tờ tường trình lại cho bệnh nhân, v.v…

2. Mảnh Đắp (Patch)

Mảnh Đắp hơi khác với “Thuốc Dán” mà ta thường dùng (Salonpas, Heat/cold pads,v.v…); Hoặc các loại “Băng Dán” nhỏ che các vết thương nhỏ (bandages), chống say sóng, cai thuốc… Mảnh Đắp “MĐ” được thiết kế tinh xảo, chứa được những loại thuốc hay y-dược VLĐC, tuy là dạng lượng siêu nhỏ (nhờ nanotechnology) nhưng rất mạnh và hữu hiệu. MĐ có lợi thế tâm lý cho những ai sợ kim chích, và tránh tình trạng dùng lại kim hay vứt chúng bừa bãi.

a). Mảnh Đắp có tẩm thuốc và có kim siêu nhỏ: Năm nay 2010, Viện Công Nghệ Georgia/USA vừa cho biết họ đã có sản phẩm MĐ có kim siêu nhỏ có tẩm thuốc Chủng Ngừa Cúm. Kim sẽ chuyền (“tiêm”, transdermal) thuốc một cách nhẹ nhàng, hòa tan và nhập xuyên qua da vào cơ thể. Họ đã thử nghiệm thành công trên chuột, và hầu hết các tình nguyện viên cho biết họ không cảm thấy đau hay khó chịu vì mặt nhám (có kim) của MĐ (không có thuốc) sau khi thử nghiệm. Năm 2015 sẽ có thể cho ra thị trường nếu mọi việc tiến triển tốt đẹp.

b.- Mảnh Đắp có tẩm thuốc VLĐC, không có kim: Năm 2004, đã có một phát minh mới, MĐ chứa dược thảo thiên nhiên nhưng không chuyền hay tiêm thuốc qua da (non-transdermal). Các dược thảo trong MĐ là những chất thuộc trong danh sách y-dược VLĐC (tức được FDA cho phép dùng); cách chế tạo theo dạng siêu nhỏ, nanotechnology. Hợp chất trong MĐ chỉ kích thích những điểm nhậy cảm nhưng ứng hợp với huyệt đạo châm cứu theo Đông Y; Và MĐ có dược chất VLĐC cũng có khả năng truyền tín hiệu điện não cho các tế bào của cơ thể. Phương pháp này được gọi là Châm Cứu Không Kim.

 Tương lai của kỹ nghệ sản xuất MĐ còn tiến rất xa thí dụ như MĐ có kim và thuốc: Thuốc bổ (vitamin), thuốc chủng ngừa (immunization) các loại cho trẻ em nhập trường, hoặc MĐ có kim (như phần sưu tầm “a” trên) và các loại sinh tố tăng lực cho hệ miễn nhiễm, chống oxy hóa, phòng ngừa ung thư, bệnh tim mạch và tiểu đường loại 2, v.v… Như vậy là hệ tiêu hoá sẽ không phải làm thêm việc tiếp nhận và đào thải quá nhiều chất vô bổ (inactive ingredient) như các bao bọc của các loại thuốc mà chúng ta đang uống vào.


Kết luận:

Hiện nay, Giới Đông y một số còn nặng nề huyền học trước một khoa học thực nghiệm, còn e ngại với những phát minh kỹ nghệ tối tân, cho nên tư tưởng vẫn còn bị ảnh hưởng mê tín, giáo điều, kinh điển. Họ biết rõ là “Tùy tâm trạng và sức khỏe của người lương y” ngày hôm đó mà việc chẩn mạch đúng hay sai; tâm không tịnh, không sáng suốt sinh ra phải nói và chẩn đoán bệnh cho qua ngày. Đấy là một sự thật phủ phàng. Một số vẫn vì tự ái (ego), hoặc quá lớn tuổi, không muốn hoặc không thể theo đà tiến bộ, thường muốn huyền thoại hóa việc chẩn mạch đoán bệnh. Không ý thức rằng Nhu liệu điện toán hoặc Điện Toán Ảnh không có tâm trạng và rất khách quan chính xác (như đã nói trên). Đây là một trở ngại trầm trọng làm mất tính chất sinh động và phái triển y học.

Trong quá khứ, một số trong giới Tây y cũng đã hăng hái chú tâm nghiên cứu Đông y, nhưng rất tiếc hoặc vì chưa thấu hiểu biện chứng (dialectic) Đông y học, hoặc đầu óc còn nặng nề với biện chứng khoa học Tây phương, dùng biện chứng khoa học để lý giải tư tưởng thủ thuật Đông y học cho nên họ đã gặp nhiều ngộ nhận đi đến bế tắt.

 May thay, trong những năm gần đây, nhờ có nhiều sự hy sinh, tầm nhìn xa, nhờ quan niệm cởi mở và nổ lực của một số chuyên gia trong các ngành y khoa, dược khoa, và sinh-vật-lý học, Tây và Đông y ngày càng gần nhau hơn. Họ giới thiệu bệnh nhân qua lại cho nhau, họ hợp tác vì lương tâm và tinh thần trách nhiệm đối với bệnh nhân; và công kỹ nghệ cũng theo đà đòi hỏi của giới tiêu thụ mà đáp ứng và phát triển. Phối hợp Đông Tây y cùng công nghệ tân tiến là điều đáng làm và đáng khen ngợi.

Áp dụng Vi Lượng Đồng Căn là phát triển y học, áp dụng kỹ thuật điện toán trong Đông y là “Thức Thời” và “Thành Thật” với chính mình cùng bệnh nhân.

Bài viết cùng chủ đề

Comments

comments

 Web Analytics