1919  19

Những lợi ích từ rau má

Rau má có tên khoa học là Centella asiatica, họ Apiaceae. Người ta thường dùng toàn cây làm rau ăn hoặc làm thuốc. Lá tươi có mùi thơm nồng nhưng khi sấy khô thì mất mùi.

 Nhiều chất được phân lập từ rau má, gồm có tinh dầu, chất béo, sitosterol, tanin, chất nhựa. Rau má khô còn có chứa một chất alcaloid gọi là hydrocotylin, glycoside đắng là asiaticosid và centellosid. Mới đây người ta còn phát hiện trong lá và rễ rau má còn có chứa một tinh dầu được gọi là vellarine, acid pectic và nhựa. Hàm lượng chất xơ không đáng kể.

Theo y học cổ truyền, rau má có vị ngọt đắng, hơi chua và thơm nồng, tính mát.

Công dụng

– Chữa rối loạn cơ thể: toàn cây rau má có tác dụng tốt trên các cơ quan hấp thu, tiêu hóa, biến dưỡng và bài tiết, giúp duy trì hoạt động của các cơ quan này. Nó chống lại quá trình gây viêm và còn có tác dụng như một thuốc tẩy nhẹ. Rau má còn làm gia tăng sự bài tiết nước tiểu nhờ đó giúp tăng cường thải độc cho cơ thể, chống phù thũng, làm hạ huyết áp.

– Giúp tăng trí nhớ: lá rau má sấy khô tán bột, uống chung với sữa mỗi ngày từ 3 – 5 g sẽ có tác dụng tốt cho những người mắc bệnh suy giảm trí nhớ và thị lực.

– Chữa lỵ ở trẻ em: lấy 3 – 4 lá rau má sắc chung với vài cọng thìlà và thêm ít đường cho trẻ uống, cùng lúc giã vài lá rau má và đắp lên chỗ rốn của trẻ. Đây là món thuốc gia truyền rất có tác dụng.

– Chữa suy nhược thần kinh: nghiền bột lá đã được phơi khô trong râm và uống mỗi ngày từ 300 – 600 mg, chia 3 lần mỗi ngày cho người lớn và 75 – 250 mg cho trẻ em.

– Giúp thanh lọc cơ thể đối với phụ nữ: rau má nhổ cả rễ, phơi khô trong mát, xay thành bột. Mỗi ngày 2 lần, sáng và chiều, mỗi lần 3 g bột uống chung với sữa bò tươi, uống liên tục trong 3 ngày ngay sau khi hết kinh. Món thuốc này còn chữa được các chứng như đau bụng kinh, huyết trắng, nó làm mất cảm giác nặng ở bụng dưới khi có kinh.

– Bệnh chân voi và viêm tinh hoàn: trong trường hợp những người bị phù chân voi hoặc tinh hoàn bị sưng to, ép lấy dịch từ rau má tươi, pha thêm nước và bôi ngay lên các vùng bị sưng tấy. Người ta còn bào chế dạng thuốc mỡ gồm 4 g dịch chiết lá trộn chung với 30 g lanolin và thoa vào chỗ sưng mỗi ngày.

– Bệnh ngoài da: rau má được dùng chữa các bệnh ngoài da như chàm, ung nhọt, lở loét. Lấy bột lá khô hòa với nước đắp lên các vùng bị nhiễm kèm với uống dịch chiết rau má mỗi ngày 3 lần, mỗi lần từ 1 – 5 giọt. Các hoạt chất trong rau má như hydrocotylin, asiaticosid và centelosid có tácdụng tới các mô liên kết giúp các mô tái tạo nhanh chóng, làm cho vết thương mau lành và mau lên da non. Loại thuốc đắp được chế từ lá cũng được dùng để điều trị những chỗ đau và làm hạ sốt. Sử dụng chung với lá giấp cá sẽ làm gia tăng hiệu quả điều trị trên các bệnh nhân bị trĩ, đi cầu ra máu.

– Giúp trẻ lâu: nhờ có tác dụng bổ dưỡng cho não và các tuyến nội tiết và giúp cải thiện các vấn đề của hệ tuần hoàn và đặc biệt là cải thiện làn da.

– Tác dụng kháng khuẩn: chất asiaticosid có trong lá rau má còn có tác dụng làm tan màng sáp của một số vi khuẩn nhờ đó gia tăng tác dụng kháng khuẩn của rau má.

Cách dùng :

– Dạng nước sắc: 30 – 60 ml, ngày 3 lần.

– Dạng bột: 0,2 – 0,6 g, ngày 3 lần.

– Dịch ép tươi: 60 – 100 ml/ngày, dạng lá tươi: 50 – 100 g/ngày.

– Dân gian hay dùng làm rau ghém ăn sống, nấu canh, xay thành nước ép như sinh tố, dùng riêng hoặc chung với các loại rau quả khác.

Chú ý: Rau má tuy là một vị thuốc quý nhưng cần chú ý là khi dùng dịch ép tươi từ lá không nên dùng quá nhiều hoặc liều cao quá vì có thể làm bệnh nhân say thuốc và dẫn đến hôn mê.

DS. LÊ KIM PHỤNG 02/11/2011

Bài viết cùng chủ đề

Comments

comments

 Web Analytics